Nửa sau thế kỷ XVII, Phổ trở thành một trong những Đại cường quốc trên chính trường châu Âu. Tiềm lực quân sự Brandenburg-Phổ được tăng lên đáng kể dựa trên sự ra đời của một quân đội thường trực vào năm 1653, những chiến thắng quan trọng đầu tiên được ghi nhận tại các Trận Warsaw (1656), Trận Fehrbellin (1675) và Great Sleigh Drive (1678).
Brandenburg-Phổ cũng thành lập lực lượng hải quân[5] và các thuộc địa của Đức ở Bờ biển vàng Brandenburg và Arguin thuộc Tây Phi ngày nay.[6]Frederick William, được biết đến với biệt danh "Tuyển hầu vĩ đại",[7] đã mở cửa Brandenburg-Phổ, cho phép các cuộc nhập cư lớn ("Peuplierung") của những người tị nạn theo đạo Tin lành từ khắp châu Âu ("Exulanten") được vào định cư ở lãnh thổ của mình, đáng chú ý nhất là nhập cư của những tín hữu Kháng Cách tại Pháp (Huguenot) theo Sắc lệnh Potsdam.[8] Frederick William cũng bắt đầu tập trung hóa việc quản lý của Brandenburg-Phổ và giảm bớt ảnh hưởng của các điền trang.
Năm 1701, Frederick III, Tuyển hầu xứ Brandenburg đã tuyên bố thành lập Vương quốc Phổ, và nâng địa vị của các nhà cai trị Hohenzollern lên hàng vua chúa.[9] Tuyên bố này được hợp thức hoá nhờ vào địa vị chủ quyền của Công quốc Phổ nằm bên ngoài Đế chế La Mã Thần thánh, và sự chấp thuận của Hoàng đế La Mã Thần thánh của Vương tộc Habsburg cũng như các Hoàng tộc khác mở châu Âu trong quá trình thành lập liên minh cho Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha và Đại chiến Bắc Âu. Từ năm 1701 trở đi, các lãnh thổ của Nhà Hohenzollern cai trị được gọi là Vương quốc Phổ, hay đơn giản là Phổ. Về mặt pháp lý, liên minh cá nhân giữa Brandenburg và Phổ tiếp tục cho đến khi Đế chế La Mã Thần thánh giải thể vào năm 1806. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, quyền thống trị của hoàng đế đối với đế chế đã trở thành một hư vị chứ không còn thực quyền như trước đây nữa. Do đó, sau năm 1701, lãnh thổ lịch sử của Nhà Hohenzollern là Phiên bá quốc Brandenburg trên thực tế được xem là một phần của Vương quốc Phổ. Frederick và những người kế nhiệm của ông tiếp tục tập trung hóa và mở rộng nhà nước, biến liên minh cá nhân gồm các chính thể đa dạng về mặt chính trị tiêu biểu cho thời đại Brandenburg-Phổ thành một hệ thống các tỉnh trực thuộc[10] quyền cai trị của Berlin - Trung tâm cai trị của Nhà Hohenzollern.
Các Tuyển hầu xứ Brandenburg được kế thừa Công quốc Phổ sau cái chết của Albert Frederick vào năm 1618,[16] nhưng công quốc vẫn tiếp tục được giữ như một thái ấp của Ba Lan cho đến năm 1656/1657.[17] Kể từ khi John Sigismund bị đột quỵ vào năm 1616 và hậu quả là bị tàn tật nghiêm trọng về thể chất cũng như tinh thần, vợ của ông là Anna đã trị vì Công quốc Phổ dưới danh nghĩa của ông cho đến khi John Sigismund qua đời vì đột quỵ lần thứ hai vào năm 1619, ở tuổi 47.[16]
Khi Đế quốc Thụy Điểntham chiến và tiến vào Brandenburg, George William một lần nữa tuyên bố trung lập, nhưng Vua Gustavus Adolphus của Thụy Điển đã buộc George William phải trở thành đồng minh của Thụy Điển bằng cách chiếm đóng lãnh thổ đáng kể ở Brandenburg-Phổ và tập trung quân đội trước các bức tường thành phố Berlin.[20] George William không ký kết liên minh, nhưng cấp cho Thụy Điển quyền vận chuyển, hai pháo đài phong thủ và khoản trợ cấp quân sự.[20] Do đó, các đội quân Công giáo La Mã liên tục tàn phá Brandenburg và các vùng đất khác của Nhà Hohenzollern.
Frederick William đã tiếp quản Brandenburg-Phổ trong thời kỳ khủng hoảng chính trị, kinh tế và nhân khẩu học do chiến tranh gây ra.[21] Sau khi kế vị, tuyển đế hầu mới cho quân đội Brandenburgian nghỉ ngơi, nhưng có một đội quân được tăng cường trở lại vào năm 1643/44.[23] Việc Frederick William có ký kết hiệp định đình chiến và trung lập với Thụy Điển hay không vẫn còn bị tranh cải. Tuy nhiên, không có gì phải bàn cãi rằng ông đã thiết lập sự lớn mạnh của Brandenburg-Phổ.[24]
Vào thời điểm đó, các lực lượng của Đế chế Thụy Điển đang thống trị miền Bắc Đức, và cùng với đồng minh của mình là Vương quốc Pháp của Nhà Bourbon, Thụy Điển đã trở một thế lực giúp bảo đảm cho Hòa ước Westphalia vào năm 1648. Mục tiêu của Thụy Điển là kiểm soát Biển Baltic bằng cách thiết lập kiểm soát dọc trên đường bờ biển ("dominium maris baltici")[25] ngăn cản tham vọng của Frederick William nhằm giành quyền kiểm soát cửa sông Oder với Stettin (Szczecin) ở Pomerania.[26]
Các lãnh thổ của Phiên bá quốc Brandenburg từ lâu đã tìm cách mở rộng về phía Bắc, để ra được Biển Baltic. Hiệp ước Grimnitz (1529) đảm bảo người Nhà Hohenzollern sẽ thừa kế Công quốc Pomerania sau sự tuyệt tự dòng nam của Nhà Pomerania, và sẽ có hiệu lực sau cái chết của Công tước Pomerania Bogislaw XIV vào năm 1637.[23] Tuy nhiên, theo Hiệp ước Stettin (1630), Bogislaw XIV cũng đã chuyển giao quyền kiểm soát công quốc cho Thụy Điển,[27] người đã từ chối nhượng bộ yêu sách của các nhà cai trị Brandenburg. Hòa ước Westphalia đã giải quyết những tranh chấp lãnh thổ công quốc Pomerania giữa Brandenburg và Thụy Điển, theo đó xác định biên giới trong Hiệp ước Stettin (1653).[28] Thụy Điển giữ lại phần phía Tây bao gồm hạ Oder (Pomerania thuộc Thụy Điển), trong khi Brandenburg giành được phần phía Đông (Farther Pomerania).[28] Frederick William không hài lòng với kết quả này, và việc mua lại toàn bộ Công quốc Pomerania trở thành một trong những mục tiêu chính trong chính sách đối ngoại của ông.[29]
^Beier, Brigitte (2007). Die Chronik der Deutschen (bằng tiếng Đức). wissenmedia. tr. 162. ISBN3-577-14374-6.
^Cf. Meyers großes Konversations-Lexikon: 20 vols. – completely new ed. and ext. ed., Leipzig and Vienna: Bibliographisches Institut, 1903-08, here vol. 2, article 'Berlin', p 700. No ISBN
Clark, Christopher. Iron Kingdom: The Rise and Downfall of Prussia, 1600-1947 (2008)
Frost, Robert I (2004). After the Deluge. Poland-Lithuania and the Second Northern War, 1655-1660. Cambridge Studies in Early Modern History. Cambridge University Press. ISBN0-521-54402-5.
Holborn, Hajo. A History of Modern Germany. Vol 2: 1648–1840 (1962)
Hughes, Michael. Early Modern Germany, 1477–1806 (1992)
Ogilvie, Sheilagh. Germany: A New Social and Economic History, Vol. 1: 1450–1630 (1995) 416pp; Germany: A New Social and Economic History, Vol. 2: 1630–1800 (1996), 448pp
Sturdy, David J. (2002). Fractured Europe, 1600-1721. Wiley-Blackwell. tr. 59. ISBN0-631-20513-6.
Tiếng Đức
Beier, Brigitte (2007). Die Chronik der Deutschen (bằng tiếng Đức). wissenmedia. ISBN978-3-577-14374-5.
Buchholz, Werner biên tập (1999). Pommern (bằng tiếng Đức). Siedler. ISBN3-88680-780-0.
Carreras, Sandra; Maihold, Günther (2004). Preußen und Lateinamerika. Im Spannungsfeld von Kommerz, Macht und Kultur. Europa-Übersee (bằng tiếng Đức). 12. LIT. ISBN3-8258-6306-9.
Duchhardt, Heinz (2006). “Friedrich Wilhelm, der Große Kurfürst (1640-1688)”. Trong Kroll, Frank-Lothar (biên tập). Preußens Herrscher. Von den ersten Hohenzollern bis Wilhelm II (bằng tiếng Đức). Beck. tr. 95–112. ISBN3-406-54129-1.
Gabel, Helmut (1998). “Altes Reich und europäische Friedensordnung. Aspekte der Friedenssicherung zwischen 1648 und dem Beginn des Holländischen Krieges”. Trong Lademacher, Horst; Groenveld, Simon (biên tập). Krieg und Kultur. Die Rezeption von Krieg und Frieden in der Niederländischen Republik und im Deutschen Reich 1568-1648 (bằng tiếng Đức). Waxmann. tr. 463–480. ISBN3-89325-575-3.
Gotthard, Axel (2006). “Zwischen Luthertum und Calvinismus (1598-1640)”. Trong Kroll, Frank-Lothar (biên tập). Preußens Herrscher. Von den ersten Hohenzollern bis Wilhelm II (bằng tiếng Đức). Beck. tr. 74–94. ISBN3-406-54129-1.
Hammer, Ulrike (2001). Kurfürstin Luise Henriette. Eine Oranierin als Mittlerin zwischen den Niederlanden und Brandenburg-Preußen. Studien zur Geschichte und Kultur Nordwesteuropas (bằng tiếng Đức). 4. Waxmann. ISBN3-8309-1105-X.
van der Heyden, Ulrich (2001). Rote Adler an Afrikas Küste. Die brandenburgisch-preussische Kolonie Grossfriedrichsburg in Westafrika (bằng tiếng Đức) (ấn bản thứ 2). Selignow. ISBN3-933889-04-9.
Jähnig, Bernhart (2006). “Die politischen und rechtlichen Außenbeziehungen des Herzogtums Preußen (1525–1660)”. Trong Willoweit, Dietmar; Lemberg, Hans (biên tập). Reiche und Territorien in Ostmitteleuropa. Historische Beziehungen und politische Herrschaftslegitimation. Völker, Staaten und Kulturen in Ostmitteleuropa (bằng tiếng Đức). 2. Munich: Oldenbourg Wissenschaftsverlag. tr. 51–72. ISBN3-486-57839-1.
Klueting, Harm (2003). Reformatio vitae Johann Jakob Fabricius (1618/20-1673). Ein Beitrag zu Konfessionalisierung und Sozialdisziplinierung im Luthertum des 17. Jahrhunderts. Historia profana et ecclesiastica (bằng tiếng Đức). 9. LIT. ISBN3-8258-7051-0.
Kotulla, Michael (2008). Einführung in die deutsche Verfassungsgeschichte. Vom alten Reich bis Weimar (1495 bis 1933) (bằng tiếng Đức). Springer. tr. 261ff. ISBN978-3-540-48705-0.
Materna, Ingo; Adamy, Kurt (1995). Brandenburgische Geschichte (bằng tiếng Đức). Akademie Verlag. tr. 317ff. ISBN3-05-002508-5.
Neugebauer, Wolfgang (2006). “Friedrich III./I. (1688-1713)”. Trong Kroll, Frank-Lothar (biên tập). Preußens Herrscher. Von den ersten Hohenzollern bis Wilhelm II (bằng tiếng Đức). Beck. tr. 113–133. ISBN3-406-54129-1.
von Neugebauer, Wolfgang biên tập (2009). Das 17. und 18. Jahrhundert und Große Themen der Geschichte Preußens. Handbuch der Preußischen Geschichte (bằng tiếng Đức). 1. de Gruyter. ISBN978-3-11-014091-0.
Neuhaus, Helmut (2003). Das Reich in der frühen Neuzeit. Enzyklopädie deutscher Geschichte (bằng tiếng Đức). 42 (ấn bản thứ 2). Oldenbourg. ISBN3-486-56729-2.
Nicklas, Thomas (2002). Macht oder Recht: frühneuzeitliche Politik im Obersächsischen Reichskreis (bằng tiếng Đức). Franz Steiner Verlag. tr. 214ff. ISBN3-515-07939-4.
Olesen, Jens E. (2003). “Christian IV og dansk Pommernpolitik”. Trong Asmus, Ivo; Droste, Jens E.; Olesen (biên tập). Gemeinsame Bekannte: Schweden und Deutschland in der Frühen Neuzeit (bằng tiếng Đan Mạch). LIT Verlag. tr. 383–396. ISBN3-8258-7150-9.
Schmidt, Georg (2006). Der Dreissigjährige Krieg (bằng tiếng Đức) (ấn bản thứ 7). C.H.Beck. ISBN3-406-49034-4.
Weber, Matthias (2003). Preussen in Ostmitteleuropa. Geschehensgeschichte und Verstehensgeschichte. Schriften des Bundesinstituts für Kultur und Geschichte der Deutschen im östlichen Europa (bằng tiếng Đức). 21. Oldenbourg. ISBN3-486-56718-7.