Trong giải phẫu người, cánh tay là một phần của chi trên giữa khớp ổ chảo - cánh tay (khớp vai) và khớp khuỷu. Về mặt giải phẫu, đai vai là nơi chứa xương và cơ, theo định nghĩa, là một phần của cánh tay. Thuật ngữ brachium trong tiếng Latinh có thể dùng cho toàn bộ cánh tay và cẳng tay hoặc chỉ dùng cho cánh tay.[1][2][3]
Thần kinh quay (từ C5 đến T1) bắt nguồn từ sự tiếp nối của dây sau của đám rối cánh tay. Thần kinh này đi vào lỗ tam giác dưới (một lỗ tưởng tượng giới hạn bởi xương cánh tay và cơ tam đầu cánh tay) nằm sâu vào cơ tam đầu cánh tay. Tại đây, nó đi cùng với động mạch cánh tay sâu, nằm trong rãnh thần kinh quay của xương cánh tay. Trên lâm sàng, gãy thân xương cánh tay có thể khiến dây thần kinh bị tổn thương hoặc thậm chí là bị đứt.
Các dây thần kinh khác đi qua cánh tay nhưng không chi phối vùng này, bao gồm:
Thần kinh giữa, nguồn gốc từ C5-T1, là một nhánh của bó ngoài và bó trong của đám rối cánh tay. Dây thần kinh này tiếp tục ở cánh tay, di chuyển trong một mặt phẳng giữa cơ nhị đầu và cơ tam đầu. Tại hố trụ, thần kinh này là chui vào cơ sấp tròn và là cấu trúc trung gian nhất trong hố. Dây thần kinh đi vào cẳng tay.
Động mạch cánh tay tiếp tục đến hố trụ trong ô cánh tay trước. Nó di chuyển trong một mặt phẳng giữa cơ nhị đầu và cơ tam đầu, giống thần kinh giữa và tĩnh mạch nền. Động mạch có tĩnh mạch đi kèm. Động mạch cánh tay cho các nhánh cung máu cho cơ ô cánh tay trước. Động mạch nằm ở giữa thần kinh giữa và gân của cơ nhị đầu trong hố trụ, rồi đi vào cẳng tay.
Động mạch cánh tay sau đi qua lỗ tam giác dưới cùng thần kinh quay và tùy hành với thần kinh này. Cả hai đều đi qua rãnh thần kinh quay của xương cánh tay. Do đó, gãy xương không chỉ dẫn đến tổn thương thần kinh quay mà còn gây tụ máu các cấu trúc bên trong của cánh tay. Sau đó, động mạch tiếp tục cho các nhánh thông với nhánh động mạch quặt ngược quay của động mạch cánh tay, cung cấp máu khuếch tán đến khớp khuỷu.
Tĩnh mạch
Hai tĩnh mạch chính là tĩnh mạchnền và tĩnh mạch đầu. Có một tĩnh mạch kết nối giữa hai tĩnh mạch nêu trên, đó là tĩnh mạch trụ giữa. Tĩnh mạch này đi qua hố trụ, rất quan trọng về mặt lâm sàng vì là nơi để chọc tĩnh mạch (rút máu).
Tĩnh mạch nền di chuyển ở phía trong cánh tay và kết thúc ngang mức xương sườn VII.
Tĩnh mạch đầu di chuyển ở phía ngoài cánh tay đi qua tam giác cơ delta - ngực và kết thúc ở vị trí giống tĩnh mạch nách.
Văn hoá
Trong Hindu giáo, Phật giáo và văn hóa Ai Cập, biểu tượng cánh tay được sử dụng để minh họa sức mạnh chủ quyền. Trong Hindu giáo, cánh tay các vị thần mang biểu tượng sức mạnh cụ thể. Người ta tin rằng càng nhiều tay, tính toàn năng của vị thần càng thể hiện mạnh mẽ.
Ở Tây Phi, người Bambara sử dụng cẳng tay để tượng trưng cho linh hồn, mối liên kết giữa Thiên Chúa và con người.
Việc giơ cả hai tay ra hiệu đầu hàng thể hiện sự kêu gọi lòng thương xót và công lý.[10]
^Sports injuries: prevention, diagnosis, treatment and rehabilitation. Doral, Mahmut Nedim; Karlsson, Jon. Berlin. ngày 4 tháng 3 năm 2015. ISBN9783642368011. OCLC1111734654.Quản lý CS1: khác (liên kết)
^Gray's anatomy: the anatomical basis of clinical practice. Standring, Susan . [Philadelphia]. ISBN9780702052309. OCLC920806541.Quản lý CS1: khác (liên kết)