Friedrich von Schele sinh vào tháng 9 năm 1847, là con trai của Kiểm lâm Hoàng gia (Hofjägermeisters) và Trưởng nhóm Thị thần (Hofkanmmer) Phổ Werner von Schele (1814 – 1869) với người vợ của ông này là bàn Gemahlin Marie, nhũ danh Eichhorn (1822 – 1861).
Vào năm 1892, Schele được đi làm phái viên của Toàn quyền Đông Phi, và sau khi ông được phong cấp hàm Đại tá vào năm 1893, ông được phong làm Toàn quyền Đông Phi đồng thời được giao chỉ huy Lực lượng Bảo hộ (Schutztruppe) của Đức. "Một người đàn ông đẹp trai có tài năng thường được mô tả là xoàng xĩnh", nhưng ông đã tiến hành một số chiến dịch quân sự để thảo phạt các dân tộc thiểu số bản địa, bao gồm người Massai dưới quyền tù trưởng Meli ở núi Kilimanjaro và người Hehe dưới sự cai trị của tù trưởng Mkwawa. Cuộc thảo phạt người Massai của Đại tá Schele đã khởi đầu vào tháng 8 năm 1893, và sau khi đẩy lui các cuộc tấn công lẻ tẻ, ông đã đánh bại hoàn toàn người Massai. Đến tháng 12 năm đó, ông thúc quân tấn công Umbunga, đánh bại quân bản xứ và treo cổ một thủ lĩnh quan trọng của họ. Sau đó, vào ngày 26 tháng 10 năm 1894, với 609 lính dã chiến askari và 3 khẩu súng máy, ông tiến đánh cao nguyên Iringa, và không còn cơ hội để mai phục, người Hehe buộc phải chạy vào pháo đài Kalenga ở Iringa. Đến ngày 30 tháng 10 năm 1894, Schele đè bẹp cuộc kháng cự của người Hehe trong pháo đài Kalenga, tiêu diệt 250 chiến binh Hehe. Sau khi tới một khoảng cách an toàn, Mkwawa ngồi khóc. Từ một ngọn đồi gần đó, Mkwawa theo dõi quân Đức cho đến khi họ rút lui vào ngày 3 tháng 11. Trên đường rút, quân Đức đã đập tan một cuộc mai phục do Mkwawa thực hiện. Do chiến thắng của ông trước người Hehe, dân tộc được xem là kẻ thù nguy hiểm nhất của sự thống trị của thực dân Đức tại Đông Phi vào thập niên 1890, Schele được tặng thưởng Huân chương Quân công cao quý nhất của Phổ vào ngày 20 tháng 11 năm 1894. Tuy nhiên, thắng lợi này cũng chấm dứt thời kỳ cầm quyền của ông tại Đông Phi. Những người chủ hòa trong Quốc hội Đức đả kích chính sách của ông và theo chỉ dụ vào ngày 12 tháng 12 năm 1894, chính phủ đặt hoàn toàn bộ máy hành chính thuộc địa dưới sự điều khiển của Ban Thuộc địa thuộc Bộ Ngoại giao ở Berlin. Từng là một sĩ quan trong một trung đoàn thương kỵ binh tinh nhuệ, ông không chấp nhận bị đặt dưới quyền các viên chức của Bộ Ngoại giao thay vì quân vương. Ông đe dọa từ chức nếu không được trực thuộc dưới quyền Wilhelm II. Vị hoàng đế ngạc nhiên đã chấp nhận đơn từ chức của Schele vào năm 1895.[1][2][3]
Sau đó, ông trở lại phục vụ quân đội Đức, vào ngày 14 tháng 4 ông được ủy nhiệm chức sĩ quan hầu cận của Đức hoàngWilhelm II và không lâu sau đó ông được bổ nhiệm làm Lữ đoàn trưởng ngày 13 tháng 5 năm 1895. Trong khi vẫn giữ chức vụ sĩ quan hầu cận của Hoàng đế, ông được nhậm chức Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Kỵ binh số 2 vào ngày 1 tháng 6 năm 1896. Một tháng sau, Schele rời cương vị sĩ quan hầu cận và vào ngày 22 tháng 3 năm 1897, ông được thăng cấp hàm Thiếu tướng. Tiếp theo đó, vào ngày 10 tháng 6 năm 1899, ông được giao trông coi Cục Thanh tra Kỵ binh số 3 ở Münster (Westfalen). Cùng ngày, Schele được ban tặng Ngôi sao đính kèm Huân chương Vương miện hạng II kèm theo Thanh kiếm. Vào ngày 22 tháng 5 năm 1900, ông được thăng hàm Trung tướng, đồng thời được phong chức Cục trưởng (Inspekteur). Sau một năm điều hành Cục Thanh tra Kỵ binh số 3, Schele được thuyên chuyển làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn số 16, đóng quân tại Trier. Ông chỉ huy sư đoàn này cho đến ngày 16 tháng 2 năm 1903 rồi được bổ nhiệm làm Thống đốc thành Mainz. Vì lý do sức khỏe, vào ngày 1 tháng 5 năm 1904, ông xuất ngũ (zur Disposition, không phục vụ tại ngũ nữa nhưng sẽ được triệu hồi khi có chiến tranh). Đồng thời, vì những thành tích của ông, vua Wilhelm II trao tặng cho ông Huân chương Đại bàng Đỏ hạng I đính kèm Bó sồi, Thanh gươm và Vương miện hoàng gia, đồng thời bổ nhiệm ông làm Viện trưởng Viện Phế binh Berlin. Chẳng mấy lâu sau, Schele từ tần vào ngày 20 tháng 7 năm 1904 do bệnh tình trầm trọng, và được mai táng ở nghĩa trang Invalidenfriedhof tại Berlin.
^The German Colonial Experience: Select Documents on German Rule in Africa, China, and the Pacific 1884-1914, các trang 80-81.
^R. W. Beachey, A History of East Africa, 1592-1902, trang 238
Tham khảo
Kurt von Priesdorff: Soldatisches Führertum, Hanseatische Verlagsanstalt Hamburg, Band 10, S.267-269
Karl-Friedrich Hildebrand, Christian Zweng: Die Ritter des Ordens Pour le Mérite des I. Weltkriegs, Band 3: P-Z, Biblio Verlag, Bissendorf 2011, ISBN 3-7648-2586-3, S. 195-197
Deutsches Kolonial-Lexikon, Band 3, hrsg. von Heinrich Schnee, Leipzig 1920, S. 262